TRỘM TÀI SẢN ĐỂ CẤN TRỪ NỢ CÓ VI PHẠM PHÁP LUẬT?

Tình huống pháp lý: Luật sư cho tôi hỏi, tôi nợ ông B 100 triệu đồng mà chưa có tiền trả. Ông B nhân lúc tôi ngủ đã trộm chiếc xe máy của tôi giá trị 40 triệu đồng để siết nợ thì ông B có vi phạm pháp luật hay không? Nếu ông B bồi thường cho tôi và tôi có đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho ông B thì ông B có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?

Trả lời: Cảm ơn Quý Khách đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật 36. Dựa trên những thông tin được cung cấp, sau khi đối chiếu các quy định pháp luật liên quan, Công ty Luật 36 xin đưa ra một số trao đổi như sau:

Theo quy định tại Điều 195 Bộ luật Dân sự 2015 thì người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật.

Hành vi tự ý định đoạt tài sản của người vay hay để “siết nợ” là hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác. Việc vay mượn tiền là quan hệ dân sự, chủ nợ khi không đòi được nợ thì cũng không được tự ý lấy tài sản của con nợ để gán nợ, siết nợ. Để đòi nợ đúng luật khi quá hạn, người cho vay có thể khởi kiện lên Tòa án để yêu cầu cơ quan xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hành vi lấy (chuyển dịch) tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác không phải là hành vi hợp pháp và có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự.

Về tội danh xét về hành vi của B, ông B đã có hành vi lén lút trộm chiếc xe máy trị giá 30 triệu, hành vi của B có dấu hiệu cấu thành Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.

Về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định:

1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi có quyết định đại xá.

2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy him cho xã hội nữa;

b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;

c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Với quy định nêu trên, nếu ông B bị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét thực hiện hành vi của loại tội phạm ít nghiêm trọng thì nếu ông B tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được Qúy Khách hoặc người đại diện hợp pháp của Qúy Khách tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Trên đây là Giải đáp của CÔNG TY LUẬT 36 cho câu hỏi: Trộm tài sản để cấn trừ nợ có vi phạm pháp luật? dựa trên các quy định của Pháp luật hiện hành. Trong trường hợp Quý khách cần làm rõ hơn các vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác, xin vui lòng liên hệ tới Đường dây nóng: 0936.92.36.36 để được Phục vụ & Giải đáp. Trân trọng cảm ơn !

………………………………..

Luật sư tại Thanh Hóa: CÔNG TY LUẬT 36

Trụ sở: Tầng 2, Tòa nhà Hợp khối, số 164 Lý Nam Đế, P. Đông Hương, Tp. Thanh Hóa (Sau Cục thuế tỉnh Thanh Hóa)

Website: www.luatsuthanhhoa.vn 

Email: luatsuthanhhoa@gmail.com

Điện thoại: 0936.92.36.36

Fanpage: CÔNG TY LUẬT 36

https://www.facebook.com/luatsuthanhhoa

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *